Được mệnh danh là Disney của Nhật Bản, xưởng phim hoạt hình Ghibli đôi khi còn được đánh giá cao hơn cả người đồng nghiệp bên kia bán cầu của mình. Những bộ … xem thêm…phim tuyệt đẹp và đầy cảm động của Ghibli không chỉ đưa các em nhỏ mà cả người lớn chúng ta đi hết từ cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác. Hãy cùng nhau xem lại những bộ phim cũng là những cuộc phiêu lưu kỳ thú nhất của hãng phim hoạt hình số một Nhật Bản này nhé!
Gió nổi (2013)
Gió nổi là một phim hoạt hình dã sử với kịch bản và đạo diễn thực hiện bởi Miyazaki Hayao phát hành vào mùa hè năm 2013. Bộ phim dựa trên bộ truyện tranh cùng tên, vốn chính bộ truyện dựa trên một truyện ngắn được viết vào giai đoạn 1936-1937 của Hori Tatsuo (28/12/1904 – 28/05/1953), một nhà văn, nhà thơ và dịch giả sống vào giữa thế kỷ 20 (thời kỳ Showa) của Nhật Bản. Miyazaki cho biết đây sẽ là bộ phim cuối cùng của ông. Tên tiếng Anh của phim là The Wind Rises.
Gió nổi là phim có doanh thu cao nhất Nhật Bản năm 2013. Phim đã nhận được các giải thưởng như giải Viện Hàn lâm Nhật Bản cho phim hoạt hình hay nhất, cùng nhiều đề cử danh giá như đề cử giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất, đề cử Quả cầu vàng cho phim nói tiếng nước ngoài hay nhất
Điểm IMDb: 7.7
Điểm Tomatometer: 88%
Điểm đánh giá từ khán giả: 85%
Câu chuyện về nàng công chúa Kaguya (2013)
Câu chuyện về nàng công chúa Kaguya là một phim anime phát hành vào mùa thu năm 2013 của Studio Ghibli, kịch bản và đạo diễn bởi Takahata Isao. Phim được dựa trên truyện cổ tích Nàng tiên trong ống tre
Là một trong những tác phẩm thành công gần đây nhất của xưởng Ghibli, Câu chuyện về nàng công chúa Kaguya đã được đề cử giải thưởng của viện Hàn lâm khoa học và nghệ thuật điện ảnh nhờ những cảnh phim vẽ tay tuyệt vời nhất từng xuất hiện trong các tác phẩm hoạt hình. Đây cũng là một sản phẩm tiêu biểu của Ghibli với phong cách nghệ thuật đặc trưng và một câu chuyện sử thi đặc biệt kể lại quá trình trưởng thành của nàng công chúa bí ẩn tỏa sáng trong đốt tre.
Điểm IMDb: 8.0
Điểm Tomatometer: 100%
Điểm đánh giá từ khán giả: 90%
Lâu đài của Howl (2004)
Lâu đài của Howl là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản thuộc thể loại kỳ ảo năm 2004 do Miyazaki Hayao đạo diễn kiêm viết kịch bản, dựa trên tiểu thuyết cùng tên năm 1986 của nữ tác giả người Anh Diana Wynne Jones. Bộ phim do Suzuki Toshio sản xuất, với phần đồ hoạ hoạt hình thuộc về Studio Ghibli và được phân phối bởi Toho. Hai diễn viên lồng tiếng chính cho phiên bản tiếng Nhật bao gồm Baisho Chieko và Kimura Takuya, trong khi đó các diễn viên lồng tiếng Anh gồm có Jean Simmons, Emily Mortimer và Christian Bale. Lấy bối cảnh một vương quốc hư cấu nơi mà cả phép thuật và công nghệ tiên tiến đầu thế kỷ 20 cùng tồn tại, câu chuyện xoay quanh Sophie, cô thợ làm mũ trẻ luôn bằng lòng với cuộc sống bình lặng của mình. Sau khi bị một mụ phù thủy yểm bùa biến thành bà già, Sophie gặp được pháp sư Howl và cùng anh đối đầu với nhà vua, người yêu cầu anh tham gia vào cuộc chiến tranh với nước láng giềng.
Lâu đài của Howl nhận được sự khen ngợi từ giới phê bình, chủ yếu dành cho mặt hình ảnh và cách Miyazaki thể hiện các chủ đề. Bộ phim được đề cử tại hạng mục Phim hoạt hình hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 78 và giành được một số giải thưởng khác trong đó có bốn giải Tokyo Anime và một giải Nebula cho Kịch bản xuất sắc nhất.
Điểm IMDb: 8.2
Điểm Tomatometer: 87%
Điểm đánh giá từ khán giả: 93%
Sự trả ơn của bầy mèo (2002)
Là một trong những tác phẩm vui nhộn và ngô nghê của hãng Ghibli, Sự trả ơn của bầy mèo giống như một viên kim cương chưa được chăm chút vậy. Sự trả ơn của bầy mèo kể về Haru, một cô bé học sinh trung học 17 tuổi như bao bạn bè khác. Khi phải đối mặt với thực tế, cô không bao giờ có khả năng quyết định một điều gì cho bản thân mình mà thường nương theo quan điểm của người khác để tránh những thử thách. Một ngày kia, Haru đã cứu một chú mèo khỏi bị xe tải cán khi băng qua đường. Haru bị kéo đến vương quốc mèo sau khi cô cứu sống hoàng tử mèo (Lune) và vô tình nhận lời kết hôn với chàng. Và từ đó cuộc phiêu lưu của cô cùng chú mèo đội mũ chóp cao Baron Humbert von Gikkingen bắt đầu.
Sự trả ơn của bầy mèo là một bộ phim hài hước hiếm hoi của Ghibli, hãng phim vốn nổi tiếng lấy đi nhiều nước mắt hơn là tiếng cười của khán giả.
Điểm IMDb: 7.2
Điểm Tomatometer: 88%
Điểm đánh giá từ khán giả: 82%
Vùng đất linh hồn (2001)
Vùng đất linh hồn là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản đề tài tuổi mới lớn và kỳ ảo công chiếu năm 2001 do Miyazaki Hayao làm đạo diễn kiêm nhà biên kịch. Cốt truyện phim kể về câu chuyện của Ogino Chihiro (Hiiragi), một cô bé 10 tuổi luôn buồn chán; trong khi chuyển đến ngôi nhà mới thì cô bị lạc vào thế giới linh hồn của tín ngưỡng dân gian Thần đạo Nhật Bản. Sau khi cha mẹ mình bị phù thủy Yubaba (Natsuki) biến thành heo, Chihiro buộc phải làm việc tại nhà tắm công cộng của Yubaba để tìm cách giải thoát cha mẹ và mình và trở về với thế giới loài .
Vùng đất linh hồn đã giành chiến thắng giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất tại lễ trao giải lần thứ 75, qua đó trở thành phim điện ảnh hoạt hình vẽ bằng tay và có ngôn ngữ không phải tiếng Anh đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) đạt danh hiệu này. Phim còn đoạt giải Gấu Vàng tại Liên hoan phim quốc tế Berlin năm 2002 (đồng giải với phim Bloody Sunday) và nằm trong top 10 danh sách 50 phim bạn nên xem khi ở tuổi 14 của Viện Điện ảnh Anh Quốc. Năm 2016, bộ phim được bầu chọn là phim điện ảnh hay thứ tư của thế kỉ 21 bởi 177 nhà phê bình điện ảnh từ khắp nơi trên thế giới, qua đó trở thành phim điện ảnh hoạt hình có thứ hạng cao nhất trong danh sách. Tạp chí New York Times cũng vinh danh tác phẩm ở vị trí thứ hai trong danh sách “những bộ phim điện ảnh hay nhất thế kỉ 21 cho đến nay” vào năm 2017.
Điểm IMDb: 8.6
Điểm Tomatometer: 97%
Điểm đánh giá từ khán giả: 96%
Công chúa Mononoke (1997)
Công chúa Mononoke là một bộ phim anime sử thi giả tưởng của đạo diễn Miyazaki Hayao do hãng phim Ghibli sản xuất năm 1997. “Mononoke” (物の怪?) không phải là một cái tên, đây là cách gọi chung trong tiếng Nhật có nghĩa là ma quỷ hay quái vật, ở đây có thể hiểu là “linh hồn oán hận”. Phim được công chiếu lần đầu tại Nhật vào ngày 12 tháng 7 năm 1997, và tại Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 10 năm 1999.
Phim lấy bối cảnh những cánh rừng bạt ngàn và bí ẩn xen lẫn nhiều yếu tố kỳ ảo vào cuối thời Muromachi (1392 – 1572), nơi mà súng đạn dần thay thế cho đao kiếm, sự thống trị của các samurai suy yếu đến mức biến họ thành những tên cướp bóc. Vào thời điểm này, người Nhật Bản nói riêng và loài người nói chung đã có ý thức chinh phục, khai phá thiên nhiên bằng sức lực, trí tuệ của mình. Tuy nhiên sự khai thác bừa bãi đã làm thiên nhiên nổi giận, không ít lần giáng tai họa xuống loài người.
Dù thể loại hoạt hình thường hay biết đến là dành cho thiếu nhi, nhưng đối tượng phù hợp nhất của Mononoke Hime có lẽ là người lớn và thanh thiếu niên. Vấn đề bộ phim đề cập cũng chính là vấn đề nóng bỏng của mọi thời đại: Bảo vệ môi trường sinh thái. Một bộ phim lịch sử giả tưởng hoàn mỹ, một câu chuyện về cuộc chiến dữ dội, không khoan nhượng giữa thiên nhiên và lòng tham con người, một bộ phim mà càng xem ta lại càng thấy hay và ý nghĩa. Tuy là một trong những đứa con đầu tay của xưởng và không có những nhân vật hoạt hình đáng yêu giống nhiều bộ phim khác nhưng Công chúa Mononoke vẫn là tác phẩm kinh điển gắn liền với tên tuổi của Ghibli.
Điểm IMDb: 8.4
Điểm Tomatometer: 93%
Điểm đánh giá từ khán giả: 94%
Chú heo màu đỏ (1992)
Chú heo màu đỏ (Porco Rosso) là bộ phim hoạt hình thứ sáu do Miyazaki Hayao đạo diễn dưới sự sản xuất của Studio Ghibli lừng lẫy, được công chiếu lần đầu tiên năm 1992. Cốt truyện lấy bối cảnh chiến tranh thế giới thứ nhất, một phi công lái máy bay chiến đấu đã trở thành một người săn tiền thưởng luôn nhằm vào những tên “Cướp biển lái máy bay” tại vùng biển Adriatic. Người phi công này bị một lời nguyền khuôn mặt của ông bị biến thành mặt heo.
Ông từng có tên là Marco Pagot nhưng từ khi bị lời nguyền ông có một tên khác được mọi người biết đến là Porco Rosso theo tiếng Ý có nghĩa là Lợn Đỏ vì luôn lái máy bay màu đỏ. Giữa những rối ren loạn lạc, người ta vẫn thấy được những phẩm chất cao quý và cách cư xử rất đàn ông, một đặc trưng của người Ý bên trong sâu thẳm Porco Rosso.
Bộ phim là một trong số ít những tác phẩm ngộ nghĩnh của xưởng phim Ghibli nhưng vẫn ẩn chứa nhiều thông điệp sâu sắc.
Điểm IMDb: 7.7
Điểm Tomatometer: 95%
Điểm đánh giá từ khán giả: 87%
Cô phù thủy nhỏ Kiki (1989)
Cô phù thủy nhỏ Kiki (1989) là bộ phim anime nổi tiếng của Nhật kể về Kiki – một cô bé phù thuỷ thực tập – đủ tuổi để rời gia đình và đến một nơi khác, nơi cô phải sống một mình trong vòng một năm để cô có thể trở thành một phù thuỷ thực thụ. Kiki khởi hành vào buổi tối cùng với sự cổ vũ của mọi người, sử dụng chiếc chổi của mẹ cô, và mang theo chú mèo Jiji cùng một số thứ cần thiết, ôm ấp giấc mơ mở dịch vụ vận chuyển của riêng mình.
Tuy nội dung không thật sự hấp dẫn nhưng đồ họa của phim lại khá đẹp với nhiều cảnh bay lượn đầy sống động. Bộ phim hoạt hình Cô phù thủy nhỏ Kiki thậm chí còn có cả phiên bản live-action sản xuất năm 2014 nữa nhưng tất nhiên là không thể sánh bằng nguyên bản được rồi.
Điểm IMDb: 7.8
Điểm Tomatometer: 98%
Điểm đánh giá từ khán giả: 88%
Ngôi mộ đom đóm (1988)
Bạn đã chuẩn bị khăn giấy chưa nào? Ngôi mộ đom đóm là một kiệt tác đẫm nước mắt của Ghibli và có thể khiến cho những trái tim sắt đá nhất cũng phải lay động. Lấy bối cảnh những tháng cuối cùng của cuộc thế chiến thứ 2, bộ phim dõi theo cuộc chiến sinh tồn của hai anh em mồ côi cha mẹ. Đây có lẽ là bộ phim về đề tài chiến tranh khó hiểu nhất mà bạn từng xem đấy.
Nội dung phim dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Nosaka Akiyuki vốn được tác giả viết dưới dạng bán tự truyện như là lời xin lỗi với em gái của chính tác giả. Giống như những tác phẩm khác của hãng Ghibli, bộ phim được đánh giá cao cả về giá trị nghệ thuật lẫn hình ảnh, âm nhạc.
Một trong các nhà phê bình phim đã coi Ngôi mộ đom đóm là một trong những bộ phim phản chiến có sức nặng nhất từng được thực hiện. Nhà nghiên cứu lịch sử hoạt hình Ernest Rister đã so sánh bộ phim này với các tác phẩm khác của đạo diễn Steven Spielberg và nói thêm “đây là bộ phim hoạt hình nhân văn nhất mà tôi từng được xem”. Tuy nhiên với người Nhật thì đây giống như một câu chuyện ngụ ngôn về lòng tự trọng hơn là về tinh thần phản chiến.
Điểm IMDb: 8.5
Điểm Tomatometer: 100%
Điểm đánh giá từ khán giả: 95%
Hàng xóm của tôi là Totoro (1988)
Dù cho các vị trí trong top 3 có hoán đổi nhưng Hàng xóm của tôi là Totoro vẫn mãi được xem là biểu tượng của thương hiệu Ghibli. Hàng xóm của tôi là Totoro là một phim hoạt hình Nhật Bản được hãng Ghibli sản xuất vào năm 1988, vua hoạt hình của Nhật Bản Miyazaki Hayao viết kịch bản và đạo diễn.
Hàng xóm của tôi là Totoro có thể coi là một trong những phim hoạt hình lớn đầu tiên của Hayao Miyazaki, tác phẩm này vui tươi, trong sáng, phù hợp với mọi lứa tuổi và thành phần. Nó mở màn cho loạt hoạt hình vẽ bằng tay sau này.Giống như Câu chuyện đồ chơi của Pixar, những nhân vật ngộ nghĩnh, đáng yêu trong phim đã trở nên rất đỗi quen thuộc với nhiều thế hệ người xem. Sự đơn giản nhẹ nhàng của phim có thể không còn hấp dẫn khán giả nữa nhưng với những ai đang cần một cái ôm ấm áp sau một ngày mệt nhoài thì không gì tuyệt vời hơn chú hàng xóm mập ú, Totoro.
Điểm IMDb: 8.1
Điểm Tomatometer: 95%
Điểm đánh giá từ khán giả: 94%
Mong rằng những gợi ý trên này có thể giúp bạn có những giây phút thư giãn sau một ngày làm việt mệt mỏi hoặc thỏa mãn niềm đam mê với Ghibli.
Feehily dịch từ metro.co.uk.